Chuyên mục
Nguyễn Du gửi hậu thế triết lý nhân sinh qua ngôn từ Phật giáo

Nguyễn Du gửi hậu thế triết lý nhân sinh qua ngôn từ Phật giáo

Thứ năm 25/12/2025 13:45 GMT + 7

Đại thi hào, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du (1765 – 1820), nhắc đến Nguyễn Du là tri ân bậc Đại Nho lỗi lạc đa tài và ở Cụ Tiên Điền còn có một điểm đặc biệt đó là sự hội tụ của Phật học. 


Các yếu tố quê hương, gia đình, biến cố của xã hội và thăng trầm của cuộc đời đã hình thành nên một Nguyễn Du mang tư tưởng Phật giáo sâu đậm. Ngôn từ Phật giáo mang giá trị triết lý nhân sinh thấm đẫm dưới ngòi bút của Nguyễn Du qua từng trang viết, trong đó tiêu biểu nhất là hai tác phẩm "Văn tế thập loại chúng sinh""Truyện Kiều".

 

Chính triết lý nhân sinh đạo Phật và hệ suy luận Phật giáo là những yếu tố chính để Thi hào xây dựng những nhân vật điển hình về tài, đức, sắc vẹn toàn. Nguyễn Du còn là một nhà Thiền học nữa “Nếu cụ ẩn trong chùa, sống suốt một đời tăng sĩ, hẳn là chúng ta sẽ thấy sự nghiệp văn học của cụ mang ngôn phong khác; có thể sẽ là một Thiền sư để lại nhiều bài thơ Thiền và một số sách luận giải kinh điển. Nhưng khói lửa thời ly loạn đã kéo Nguyễn Du về với nội chiến phân tranh, và tâm hồn lãng mạn đã dẫn Cụ về những hình bóng giai nhân trong thơ và cả trong đời thường” (1). Bởi thế mà các tác phẩm của Nguyễn Du mang tiếng nói tố cáo hiện thực xã hội bất công, tỏ lòng thương cảm sâu sắc trước nỗi bất hạnh của mọi kiếp người, nhất là người phụ nữ, đặc biệt là giàu lòng nhân đạo và đề cao quyền sống tự do hạnh phúc. Bằng nhiều sáng tác Nguyễn Du đã gửi đến hậu thế triết lý nhân sinh qua ngôn từ Phật giáo.

 

Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du – Di tích quốc gia đặc biệt ở xã Tiên Điền, tỉnh Hà Tĩnh.


Đại Nho tài tử Nguyễn Du sinh ra trong gia đình đại quý tộc, quan lớn đầu triều vua Lê chúa Trịnh, một thời nổi tiếng giàu sang ở đất Thăng Long và quê hương Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh “Bao giờ ngàn Hống hết cây/ Sông Rum hết nước họ này hết quan”. Từ cái nôi quê hương mang đậm bản sắc văn hoá Phật giáo, cùng với tiếp cận nhiều tư liệu về Đại thi hào, cho thấy Phật giáo đã ảnh hưởng đậm nét trong tư tưởng của bậc vĩ nhân.

 

Ngoài tố chất đa sầu, đa cảm, Nguyễn Du chịu ảnh hưởng của các tôn giáo Nho, Phật, Lão, trong đó rõ nét nhất là sự ảnh hưởng sâu sắc của đạo Phật. Phải chăng yếu tố quê hương đạo Phật và cuộc đời gặp nhiều biến cố thăng trầm đã giác ngộ Nguyễn Du từ một nhà Nho tài tử trở thành một Phật tử? Bởi qua các tác phẩm của Ông cho ta thấy rõ tinh thần Phật giáo thấm đẫm qua nghệ thuật sử dụng ngôn từ, nổi bật nhất là Đại thi hào luôn luôn lựa chọn những từ ngữ đặc sắc có nguồn gốc đạo Phật để gửi đến hậu thế triết lý nhân sinh sâu sắc.

 

Qua khảo sát 3 tập thơ: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâmBắc hành tạp lục, với 250 bài thơ mà Nguyễn Du sử dụng tới hơn 53 lần từ ngữ nhà Phật (2) . Rõ ràng nhãn quan Phật học đã thấm nhuần trong từng sáng tác của Nguyễn Du, điều đó chứng tỏ Cụ rất am hiểu Phật giáo. Hầu như tất cả các sáng tác của Nguyễn Du đều thẫm đẫm triết lý Phật giáo, trong đó tác phẩm trực tiếp trình bày tư tưởng Phật giáo là bài Văn tế thập loại chúng sinh.

 

Tác phẩm này được Đại thi hào viết trong bối cảnh đất nước mang âm khí nặng nề của đại dịch làm cho hàng triệu triệu người chết, người ta lập đàn cầu siêu cho các linh hồn được giải thoát. Bài Văn tế thập loại chúng sinh là tấm gương phản chiếu thời kỳ Lê mạt đến Tây Sơn và Nguyễn Sơ. Xuất phát từ bản thân “Trải qua những cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, Thi hào cho rằng con người muốn tồn tại thì phải vượt qua cái thiên biến để vươn tới cái bất biến. Vì vậy, bài Văn tế tựa như lời Phật kêu gọi chúng sinh từ bi, giải oan, cứu khổ, tu tâm theo tinh thần Phật giáo để thoát khỏi vòng luân hồi, hướng tới bình an, hạnh phúc “Ai ai lấy Phật làm lòng/Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi” (câu 171-172). Từ trái tim nhân ái, thương cảm vô bờ, Nguyễn Du đã cảm nhận hết nổi đau thống khổ của mọi kiếp người.

 

Ông cho rằng mỗi người một cảnh một số phận với địa vị sang hèn khác nhau nhưng cuối cùng đều phải đi đến cái chết oan nghiệt. Từ tầm nhìn và trái tim bao dung của một Phật tử, Nguyễn Du đã lên án gay gắt giai cấp thống trị đã vô cảm sống trên xương máu của quần chúng cần lao “Giàu sang càng nặng oán thù/ Máu tươi lai láng, xương khô rụng rời” (câu 27-28). Hơn thế, Ông còn thương cảm sâu sắc với những người bất hạnh nhất trong xã hội phong kiến đó là phụ nữ phải làm nghề “bán hoa”, “Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp/ Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa/ Ngẩn ngơ khi trở về già/ Ai chồng con tá biết là cậy ai?”(câu 109-112), họ cũng cùng chung số phận như nàng Kiều, Đạm Tiên khiến Nguyễn Du đau đớn như đứt từng khúc ruột “Đau đớn thay phận đàn bà” (câu 115) - câu thơ nhói lòng trong Truyện Kiều; Thương xót hơn nữa trước những trẻ em bất hạnh “Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé/ Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha/ Lấy ai bồng bế xót xa/ U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng” (câu 125-128); “Có người leo giếng đứt dây/ Người trôi nước lũ, kẻ lây lửa thành” (câu 131-132)… Cảm thương vô vàn trước tất cả người lao động khổ nhục cùng cực.


Qua Truyện Kiều ta thấy từ bi bác ái xuyên suốt trong Nguyễn Du là tấm lòng thương người như thể thương thân. Triết lý Phật giáo trong tư tưởng của Nguyễn Du chính là sự hàm chứa nhiều mặt trong tư duy của Ông. Vậy nên, Đại thi hào dành nhiều những vần thơ hay, những ngôn từ giàu đức tin vào cửa Phật “Cho hay giọt nước cành dương/ Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên (câu 1931-1932); “Cửa Thiền vừa cử cuối xuân/ Bóng hoa đầy đất vẻ ngân ngang trời” (câu 2061-2062); “Có trời mà cũng tại ta/ Tu là cõi phúc, tình là dây oan” (câu 2657-2658),…Nhưng với Thuý Kiều, người mà Nguyễn Du rất mực quý trọng thì Ông lại để cho đi tu vì nàng không tìm thấy hạnh phúc chứ không phải Kiều tu vì giác ngộ đạo Phật “Đã đem mình bỏ am mây/ Tuổi này gởi với có cây cũng vừa” (câu 3041-3042).

 

Từ tâm sự của Nguyễn Du, rằng: “Sự đời đã tắt lửa lòng/ Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi/ Dở dang nào có hay chi/ Đã tu, tu trót qua thì thì thôi” (câu 3045-3048), cho ta hiểu nàng Kiều đã tu thì tu cho trót chứ trong lòng không hề muốn dứt bỏ tình riêng cũng như vạn sự đường trần. Còn Nguyễn Du, một người tha thiết yêu con người, yêu cuộc sống mà cũng đã có thời điểm đi tu với pháp danh Chí Hiên. Từ chính  tâm sự của Nguyễn Du cho biết “Phật tiền thảm lấp sâu vùi” hay “Giọt nước cành dương” cũng không thể dập tắt được lửa lòng yêu thương của Nàng Kiều cũng như chính tác giả, vậy cho nên khi có dịp để trở lại với đời thường thì họ lại sống mạnh mẽ, chân thực như chính tâm hồn mình. 


Dưới ngòi bút của Đại thi hào có sự giác ngộ sâu sắc về đạo Phật, Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật Nàng Kiều trong Truyện Kiều khác hẳn với cô Kiều trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Sự khác biệt đó được toả ra từ chính tấm lòng từ bi và được thể hiện rõ nét qua đoạn Báo ân, báo oán, đây cũng là đoạn được đánh giá hay nhất Truyện Kiều. Qua đoạn trích này, Nàng Kiều của Nguyễn Du là người cao thượng, giàu lòng vị tha, thánh thiện, nhân từ, đã tha thứ vô lượng cho Hoạn Thư - kẻ đã hành hạ nàng đau đớn cả thể xác đến tâm hồn; Khẳng định sự khác biệt với cô Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân mang đầy oán hận, thoả mãn sự căm thù bằng việc thẳng tay trừng trị kẻ ác bằng những hành động nhỏ nhen, tầm thường.

 

Thuý Kiều là nữ nhân vật điển hình có tài - sắc - đức hạnh vẹn toàn nhưng phải chịu đủ mọi nỗi oan khổ, bất công, nhục nhã, gặp phải hết nạn nọ đến nạn kia. Nhưng vượt lên tất cả “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” chính là sức mạnh kỳ diệu của lòng từ bi đã cho Thuý Kiều vẻ đẹp hoàn thiện như lời Phật dạy: “Phật giáo nhấn mạnh rằng sắc đẹp của phụ nữ không chỉ dừng lại ở ngoại hình mà còn được thể hiện qua tấm lòng từ bi, lòng bao dung và trí tuệ. Vì chỉ khi đạt được sự cân bằng giữa Tâm và Thân thì vẻ đẹp mới trở nên hoàn thiện”.  

 

Mang lại giá trị đặc sắc cho các sáng tác của Nguyễn Du chính là sự chọn lọc ngôn từ của Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo tạo thành ngôn ngữ vừa dung hoà vừa triết lý không thể lẫn, đó chính là tài hoa vĩ đại hơn người của Đại thi hào. Chắc rằng đây là yếu tố chính để Truyện Kiều vươn tới đỉnh cao nhất của văn chương Việt Nam và sánh vai với các kiệt tác của văn chương thế giới như Thần khúc của Dante ở Italia, Phaux của Goethe ở Đức, Épghenhi Ônêghin của Puskin ở Nga,…Hơn thế kỷ qua, Truyện Kiều đã vượt qua biên giới Việt Nam bằng trên 35 văn bản dịch ra hơn 20 ngôn ngữ trên thế giới; Hơn thế nữa, đường biên lan toả của kiệt tác này còn rộng lớn bởi đang được rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu khắp năm châu quan tâm. 


Triết lý nhân sinh sâu sắc trong tư tưởng Nguyễn Du đã được Đại thi hào gửi đến hậu thế qua ngôn từ Phật giáo. Đặc biệt ngôn từ Phật giáo của Nguyễn Du mang ý nghĩa giá trị vượt mọi thời đại và đã được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao: “Triết lý của Nguyễn Du quả là tương xứng với thiên tài Nguyễn Du. Triết lý Truyện Kiều vẫn là một trí tuệ lớn, không phải là trí tuệ của trí tuệ, mà đây là trí tuệ của trái tim”(3); “Nguyễn Du đã chọn hệ suy luận Phật giáo vì Phật giáo cung cấp một cách khái quát hoá gần quần chúng, dùng nó thì loại trừ được tôn tri, đẳng cấp, nghi lễ, nói được cái mơ ước được giải thoát, cho phép ông chuyển Kiều từ chổ con người của một tầng lớp sang con người của loài người”(4); “Triết lý Phật giáo không còn giữ nguyên hình thức thuần ý niệm nữa. Nó không phải chỉ ẩn dưới những câu thơ thuyết lý. Nó thấm đẫm vào hình tượng nhân vật, bố cục và biện pháp nghệ thuật”(5) ; “Triết lý nhân sinh của nhà Phật đã từng là một sự lựa chọn từ rất sớm của ông. Bởi từ rất sớm, ông đã nhận thấy sự vô vọng của việc giải thoát con người khỏi đau khổ trong cuộc đời hiện thực”(6).

 

Biệt tài sử dụng ngôn từ Phật giáo của Nguyễn Du đã cho hậu thế hiểu rõ triết lý của đạo Phật trong việc giải quyết vấn đề số phận con người. Vì vậy, các tác phẩm của Đại thi hào đã cho giải pháp xuất sắc về xử lý tình huống cuộc sống, tựa như ánh dương cho con người hướng tới sự lương thiện trong mọi hoàn cảnh, mọi thời đại.


Tất cả những đánh giá cao nhất mà hậu thế dành cho Nguyễn Du quả thật xứng tầm với bậc Đại thi hào - Tri ân Danh nhân văn hoá thế giới./.

---------

(1) Nguyên Giác (2021), Từ huyền thoại tới tâm kinh, Nxb. Ananda Viet Foundation, “Từ nhà sư Chí Hiên tới nhà thơ Nguyễn Du”. Nguồn: //thuvienhoasen. org/, 5. 5. 2021).

(2) Phạm Tuấn Vũ Từ ngữ nhà Phật trong thơ chữ Hán Nguyễn Du (Nguồn https://tapchi
vanhoaphatgiao.com/luu-tru/14958).

(3) Hoàng Ngọc Hiến (2003), “Triết lý Truyện Kiều” in trong sách Văn học gần và xa, NXB Giáo
dục, tr.193.

(4) Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB Khoa học xã hội, tr.60.

(5) Cao Huy Đỉnh (1998), “Triết lý đạo Phật trong Truyện Kiều”, in trong sách Nguyễn Du về tác
giả và tác phẩm, NXB Giáo dục 1998, tr.561.

(6) Nguyễn Phạm Hùng,“Tìm hiểu tư tưởng Phật giáo của Đại thi hào Nguyễn Du”. Nguồn:
https://thuvienhoasen. org/, ngày 29. 12. 2010.

 

Phạm Thị Kim Loan - Trung tâm chính trị Bắc Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh

Nguồn: CTV
0 bạn đọc
Đánh giá tốt

X
Bình luận của bạn:

СМИ сетевое издание «Baonga.com» зарегистрировано в Федеральной службе по надзору в сфере связи, информационных технологий и массовых коммуникаций. Регистрационный номер средства массовой информации Эл № ФС77-73891 от 29 октября 2018 г. Учредитель Ха Вьет Лонг, номер телефона: +7(905) 238 89 99. Главный редактор: Чан Тхи Тху Ха: Адрес электронной почты: info@baonga.com; Номер телефона: +7(960) 222 19 99. Настоящий ресурс содержит материалы 16+. Использование информации с данного веб-сайта возможно исключительно на следующих условиях: В конце текста необходимо указывать ссылку на сайт https://baonga.com. Текст должен копироваться в первоначальном виде. Не допускается удаление ссылки на данный веб-сайт из текстов материалов. Реклама: Rus +7(926) 282 29 86 (Viber, Whatsapp, Zalo); Вьетнам +84.979.137.386.